Kể từ Thế Kỷ XVI, bọn lái buôn và truyền giáo người xứ Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, đã từng lui tới các ven biển Đông Dương. Sau đó thì có những người Hà Lan, Anh quốc. Các Giáo Sĩ Ky-tô (Công Giáo) tới Nam Kỳ vào năm 1615. Mười năm sau, Giáo Sĩ Alexandre de Rhodes chỉ dẫn cùng họ tạo ra chữ Quốc Ngữ, lấy chữ a b c viết ra tiếng An Nam, thay thế chữ Nôm, chữ viết hiện hành thời đó, mượn chữ Hán mà viết ra thành ra ít người đọc nổi. Chẳng bao lâu về sau, ở Thành Rome có xuất bản quyển Giáo Lý bằng tiếng La-tinh và Quốc Ngữ. Lẽ cố nhiên, xin nhắc lại rằng việc phát minh chữ Quốc Ngữ sau này rất quan trọng trong việc truyền bá văn hóa Việt vào Thế Kỷ XX.
Truyền đạo và bán buôn trục lợi – cây thánh giá hội hiệp với đòn cân – ta có thể xem truyền giáo sĩ và lái buôn là những kẻ đi tiên phong trong cuộc xâm chiếm thuộc địa.
Chúa Trịnh, Chúa Nguyễn
Thời ấy dân Việt Nam sống dưới ách đô hộ của hai gia tộc cường hào thù nghịch nhau, cả hai đều là gian thần Vua Lê và thường cùng nhau chinh chiến. Chúa Trịnh thống quản Bắc Kỳ (Đàng ngoài) đóng đô ở Thăng Long, Chúa Nguyễn trị vì Trung Kỳ (Đàng trong), đóng đô ở Huế.
Phía Nam lãnh thổ Việt, Quốc Vương Chàm chạy dài tới Phan Thiết (Bình Thuận), còn xuống thẳng tới Cà Mau thì có những đất phì nhiêu châu thổ tam giác sông Cửu Long là xứ người Cao Mên hay Khmer.
Từ đầu Thế Kỷ XVII, Chúa Nguyễn khởi đầu xâm chiếm xứ Chàm (tới Qui Nhơn năm 1602) rồi thôn tính toàn bộ Quốc Vương Chàm vào lối cuối thế kỷ (tới Phan Thiết năm 1897). Một tảng đá có khắc chữ Chàm ghi nhớ việc người Chàm bị người An Nam áp bức trên đường Nam Tiến: ‘’Con của người An Nam sai khiến người Chàm như sai khiến trâu. Người An Nam sai khiến rồi cười, bên họ có vua! còn người Chàm mồ côi…’’
Đồng một lượt người Việt tiếp tục xuống miền Nam, khởi đầu khẩn hoang, kinh doanh đồn điền, có lúc tiếp xúc hòa bình với người bản xứ, lúc lại tác chiến xâm chiếm đất Khmer bấy giờ rất ít dân cư. Họ chiếm Bà Rịa từ năm 1658 rồi lấy Sài Gòn, bấy giờ là Prei Nokor năm 1675 ( 1)
Năm 1673, Chúa Nguyễn vừa ký kết đình chiến với Chúa Trịnh, thừa nhận sông Gianh, gần lối vĩ tuyến 18, là bờ cõi phân hai lãnh địa ( 2).
Trong công cuộc bành trướng lãnh thổ, Chúa Nguyễn được trợ giúp: Một đạo binh người Tàu 3.000 người trên 50 chiếc thuyền chạy thoát quyền đô hộ Mãn Châu tới Đà Nẵng xin lánh nạn. Chúa Nguyễn bèn tống họ đi về phía Nam khai khẩn và chiếm đất, lúc bấy giờ Vua Khmer đã phục tùng Chúa Nguyễn. Những người lánh nạn ấy an bài ở Biên Hòa, Gia Định, Mỹ Tho, sau cùng ở Chợ Lớn; họ bán buôn, trồng tỉa và cướp giật. Họ là thủy tổ Hoa kiều ở Nam Kỳ.
Một số người Tàu di dân khác ở Quảng Đông tới lập nghiệp trong vùng Hà Tiên, đó cũng vẫn là đất Khmer, sau đó họ khuếch trương lĩnh vực của họ từ Đảo Phú Quốc tới Rạch Giá và Cà Mau. Thủ lĩnh của họ, tên phiêu bạc Mạc Cửu chịu dưới quyền đô hộ Nhà Nguyễn vào năm 1714.
Trong nhóm di dân có tín đồ hội kín ‘’phản Thanh phục Minh’’ cảm hóa người đồng cảnh ngộ, hiệp nhau tạo ra bên ngoài xã hội công khai, một trật tự xã hội kín đáo có nghi thức riêng, đây là cội rễ các phái chính trị tôn giáo có tính chất mưu toan lật đổ đương quyền – đặc biệt như Thiên Địa Hội – thù sâu chống người Âu Tây đột nhập.
Năm 1698, Nhà Nguyễn chế định Sài Gòn là đầu phủ các Tỉnh Gia Định và Đồng Nai (Biên Hòa); năm 1733, tới lượt Long Hồ (Vĩnh Long) rồi đến Định Tường (Mỹ Tho) đều bị chiếm. Năm 1754, một quan tổng trấn ngự tại Sài Gòn đặt các lãnh thổ đã chiếm theo luật Nhà Nguyễn rồi người An Nam tiếp tục thâm nhập cho tới cuối miền Nam.
Tuy nhiên các Chúa Nguyễn còn phải đương đầu cùng nhiều địch thủ mới.
Giặc Tây Sơn lật đổ Chúa Nguyễn, Chúa Trịnh
Nông dân nổi dậy thường xuyên, làm rung động cả hai trào Chúa Nguyễn-Trịnh.
Có ba anh em, cả ba đều thuộc hạng sĩ phu – quê quán ở Ấp Tây Sơn (ngày nay là An Khê, Qui Nhơn), vì vậy tên gọi Tây Sơn – Nguyễn Văn Nhạc làm Biện Lại, cùng hiệp sức với hai em là Nguyễn Văn Lữ và Nguyễn Văn Huệ, nhờ‘’đoạt của nhà giàu để cứu giúp người nghèo’’ ( 3)mà họ chiêu tập được ít ngàn nông dân. Ba anh em chiếm Thành Qui Nhơn năm 1773, sau đó đoạt toàn Trung Kỳ và đánh đuổi Chúa Trịnh ở Bắc Kỳ.
Họ tiến thẳng tới Gia Định năm 1776 rồi hạ sát Chúa Nguyễn đang cư trú ở đó. Chỉ một mình Hoàng Tử Nguyễn Ánh, 16 tuổi được thoát thân. Rồi đây Nguyễn Ánh sẽ cầu Pháp giúp để phục hồi ngôi chúa.
Tây Sơn đang làm chủ tể toàn xứ, từ Bắc Kỳ tới Nam Kỳ.
Thánh giá mở đường gươm súng
Vừa tới Nam Kỳ năm 1767, Giám Mục Bá Đa Lộc-Pigneau de Behaine, người của Hội truyền giáo ngoại bang ở Paris, bèn ra tay cứu vớt Nguyễn Ánh lúc bấy giờ bị Tây Sơn đuổi theo, đang cùng sáu viên quan và độ trăm người tùy tùng trung thành ẩn lánh tại cù lao Phú Quốc. Giám Mục làm thầy và người chỉ dẫn cho Nguyễn Ánh.
Nguyễn Ánh trao trọn quyền thay mặt mình cho Giám Mục Bá Đa Lộc khi ông này trở về Pháp hồi tháng 12 năm 1784, để yêu cầu Vua Louis XVI trợ giúp về mặt binh bị. Giám Mục tới Paris năm 1787, chính năm thủ lĩnh Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc xưng đế ở miền Trung, lấy niên hiệu là Thái Đức, đóng đô tại Qui Nhơn (Bình Định), đồng thời Nhạc phong Huệ làm vua các tỉnh ở Bắc còn Lữ ngự trị các tỉnh miền Nam.
Giám Mục tâu với Vua Louis XVI:
Ông vua chính tông ở Nam Kỳ bị một kẻ soán ngôi lật đổ, ngài sai tôi (cùng đứa con một của ngài năm nay 16 tuổi) đến khẩn cầu vua nước Pháp trợ giúp. Xứ Nam Kỳ giàu có lắm và hoạt động sinh sản thật phi thường. Những vật liệu đặc dùng trong cuộc nội thương và ngoại thương là: Vàng, hạt tiêu, quế, lụa là, bông vải, màu chàm, sắt, trà, sáp ong, ngà voi, gôm nhựa cây nhũ hương, vernir, các thứ cây, chỉ thôm, gạo khô, cây để kiến trúc, v.v…Tóm lại, kiến lập một cơ sở Pháp ở Nam Kỳ sẽ là phương hướng chắc chắn của ta để trừ bì ảnh hưởng lớn lao của Anh quốc trong toàn các thuộc địa phủ Ấn Độ.
Số tiền người ta xuất ra để kiến lập, dù sao cũng là một việc bỏ vốn thâu lợi thật nhiều cho ảnh hưởng chính trị và thương mại mà nước Pháp sẽ hưởng trong thời gian ngắn ngủi tới ( 4).
‘’Vua Nam Kỳ’’ và Vua xứ Pháp liền ký tờ Hiệp Ước tương trợ ngày 28 tháng 11 năm 1787 ở Thành Versailles: Pháp giúp binh thì Vua Nam Kỳ phải nhượng lại cho Pháp hải cảng chính ở Hội An (Đà Nẵng), Đảo Poulo Condor-Côn Sơn Pháp làm chủ, thần dân của ‘’Đức Vua tận tâm theo Ky-tô Giáo được tự do hoàn toàn về thương mại trong các lãnh thổ của Đức Vua Nam Kỳ, trừ tuyệt toàn cả các nước Âu Châu khác. Người Pháp có thể gây dựng được những cơ sở họ xem là nhu cần cho việc hàng hải và thương mại của họ, cùng là để bồi bổ và đóng tầu’’. ( 5)
Thế thì Giám Mục Bá Đa Lộc là người tiên phong của giai cấp tư sản Pháp trong công cuộc xâm chiếm thuộc địa. Sự nghiệp này đã được phóng đại vào thời Đệ Nhị Đế Quốc (1852-1870) và nhất là trong thời kỳ Đệ Tam Cộng Hòa (1870…) Pháp.
Giám Mục rời xứ Pháp vào tháng chạp 17 năm 1787, chỉ được Nhà Vua hứa giúp thôi. Ông không nhận được trợ giúp chính thức chút nào, nhưng ông được những người Pháp buôn bán giầu có ở Ile de France (bây giờ là Đảo Ile de la Réunion, ở Ile de Boubon bây giờ là Đảo Ile Maurice) và ở các cơ nghiệp Pháp ở Pondicherry. Ngày 24 tháng 7 năm 1789, Giám Mục cập bến ở Vũng Tàu, cùng với bọn đánh giặc mướn, tốp lính đào ngũ hoặc bị đuổi khỏi các chiến thuyền của nhà vua và ‘’vọng tưởng phiêu lưu phù phiếm’’. Theo sau đó, nhiều chiếc tầu Pháp khác chở khí giới và đạn dược cùng cập bến.
Lúc bấy giờ, Nguyễn Ánh đã thu phục Sài Gòn, Vua Tây Sơn Nguyễn Văn Lữ đã từ trần năm 1787 rồi đạo binh của ông bị bại trận và rút lui. Cần phải chinh phục Trung Kỳ, nơi Nguyễn Văn Nhạc trị vì, và xứ Bắc Kỳ do Nguyễn Văn Huệ trấn thủ.
Quân của Nguyễn Ánh, vũ trang theo lối Âu Châu, luyện tập với những người lính Thủy Pháp đã từng trải, còn đoàn chiến thuyền của ông có chiến hạm do người Pháp chỉ huy hỗ trợ, nhờ đó mà Nguyễn Ánh thắng nổi Tây Sơn.
Nguyễn Văn Huệ bị bệnh mất năm 1792, Nguyễn Văn Nhạc qua đời năm sau đó, toàn quân trấn giữ Qui Nhơn kinh đô của Nhạc, cầm cự đến tháng 7 năm 1799 mới hàng. Cũng trong năm đó, vào tháng 10, vị Giám Mục háo chiến Bá Đa Lộc bị kiết lỵ mà từ giã cõi đời. Vương Thành Huế chỉ thất thủ năm 1801.
Thế thì phải 13 năm ròng rã mà họ Nguyễn vũ trang đầy đủ mới thắng nổi một cuộc nông dân chiến tranh.
Nguồn: dtv-ebook.com