Hiếu thảo là một trong những phẩm chất cao quý của con người, điều này đối với truyền thống phương Đông lại càng là một sự hiển nhiên. Trong quan hệ đời thường, để đánh giá một người trước khi hợp tác với họ làm điều gì, thì lòng hiếu thảo có thể được coi là một căn cứ quan trọng, nếu không muốn nói hàng đầu: một người đối xử với cha mẹ không ra gì, chắc cũng không thể yêu thương và sống tốt với người khác. Cho nên nhà nho nói “Thiên kinh vạn quyển, hiếu nghĩa vi tiên” (Dù có đọc muôn kinh ngàn vạn sách, cũng phải lấy đức hiếu làm đầu), cũng có cái lý của họ.
Đó cũng là lý do chính tại sao trong các sách dạy luân lý cho trẻ nhỏ Việt Nam thời trước, nội dung về đạo hiếu luôn được đưa vào ở những bài học đầu tiên. Theo sách Sơ học luân lý của cụ Trần Trọng Kim thì “Luân lý của ta xưa nay vẫn lấy điều hiếu làm trọng hơn cả các cái đức tính khác của người ta… Hiếu là nói gồm tất cả các cách của người con phải cư xử với cha mẹ cho phải đạo. Những cách ấy thì nhiều. Nhưng tóm lại thì chỉ cốt phải “yêu mến, tôn kính, biết ơn, nghe lời và giúp đỡ cha mẹ”. Nội dung giáo dục này, sau một thời gian khá dài bị lãng quên trong chương trình giáo dục bậc tiểu học, nay đã được phục hồi trong môn Đạo đức các lớp 4, 5…, có thể được coi là một sự tỉnh thức đáng mừng chung của toàn xã hội khi kịp nhận ra rằng lòng hiếu thảo, chứ không phải thứ gì khác, chính là nền tảng của đời sống văn minh tinh thần người Việt, từ trong gia đình ra đến ngoài xã hội. Mà theo nhận định của các nhà nghiên cứu, trong trường hợp Việt Nam, gia đình là nền tảng của quốc gia, xã hội. Gia đình không êm thấm, quan hệ cha mẹ con cái không hòa hợp và cố kết nhau bằng lòng từ ái của cha mẹ và nết hiếu thảo của con cái thì đó là dấu hiệu của sự tan rã nhiều thứ khác.
Tuy nhiên, nếu quá chú trọng lắm, vào các thứ lý luận, đôi khi chúng ta có thể bị rối, vì kinh nghiệm thực tế cho thấy, lòng hiếu thảo trước hết là một tình cảm gần như tự nhiên, xuất phát từ một thứ tình cảm khác là lòng biết ơn đối với cha mẹ đã yêu thương, đùm bọc và dạy dỗ con cái. Cha mẹ nào đối xử với con cái quá tệ thì cũng khó được đáp trả lại bằng lòng hiếu thảo. Thực tế cho thấy, một người dân quê thất học, chưa từng đọc một cuốn sách nào của Nho hay Phật, nhưng lại phụng dưỡng tốt cha mẹ cũng có thể là một tấm gương tốt đẹp cảm động về đạo hiếu. Trái lại, một người có trình độ học vấn cao đôi khi lại không phải là người con có hiếu. Điều này cho thấy, các thứ lý luận về đạo hiếu nếu có tác dụng thì cũng chỉ ở trong chừng mực giúp củng cố tình cảm và nâng cao nhận thức để một người biết cách hành xử hợp tình lý hơn trong việc thể hiện lòng hiếu thảo của mình đối với cha mẹ, chứ tự chúng, những thứ lý luận đó, không thể giáo dục nên lòng hiếu thảo. Cho nên nói, lòng hiếu thảo trước hết là một loại tình cảm tự nhiên xuất phát từ đáy lòng được tạo nên chủ yếu bởi tình thương mà ra.
Chúng ta nên xác định sự thật như trên chẳng qua để tránh trước một sự nhầm lẫn hay thái độ giáo điều thường hay mắc phải, chứ không có ý cho rằng tất cả những kinh sách xưa nay viết về đạo hiếu đều không có tác dụng xây dựng gì đối với cuộc nhân sinh. Trên thực tế, nếu Hiếu kinh là một bộ sách quan trọng của nhà nho giúp nâng cao nhận thức về việc thi hành đạo hiếu thì kinh Phật thuyết Vu lan bồn và những kinh khác nữa của nhà Phật hầu như cũng có một tác dụng tương tự. Vả lại, ở hai loại kinh này (Nho và Phật), tuy lý giải đạo hiếu bằng những chi tiết khác nhau nhưng tựu trung cũng quy về một mối, bởi con người hiện hữu trên thế gian với hình xác cụ thể, không ai là không trải qua giai đoạn sinh thành của cha mẹ, nên đều dễ có chung một tấm lòng, một cách nghĩ. Nếu Hiếu kinh bảo yêu cha mẹ mình thì cũng không dám ghét đối với cha mẹ người khác, thì những lời Phật dạy nghe ra bình đẳng cũng chẳng khác gì cho lắm, vì yêu thương mọi người, mọi loài sinh vật đó là tinh thần “đại hiếu đối với tất cả mọi chúng sinh”.
Thiên hạ chọn đi bằng nhiều con đường khác nhau nhưng cùng về một chỗ, nghĩ ngợi trăm chiều nhưng cùng đạt một kết quả, thì sự nhất trí như vừa nêu trên có thể coi là một lệ chứng khá cụ thể. Chỗ đại đồng tiểu dị giữa Nho với Phật chủ yếu thể hiện ở quan niệm thêm nữa của nhà Phật về đạo hiếu xuất thế gian, tức lòng từ bi quảng đại không phân biệt thân sơ hay kẻ yêu người ghét.
Lòng hiếu thảo tuy là một thứ tình cảm thiêng liêng, cao cả, nhưng đạo hiếu hay cách thực hiện lòng hiếu thảo thì lại có thể bàn luận sao cho phù hợp tùy theo đối tượng, hoàn cảnh sinh hoạt của từng cá nhân và môi trường văn hóa-xã hội cụ thể với những niềm tin hoặc tín ngưỡng khác nhau mà cá nhân đó chỉ là một phần tử hay sản vật trong cộng đồng rộng lớn. Cho dù có theo tôn giáo, Đạo nào thì việc duy trì phong tục thờ cúng tổ tiên, cha ông bà, cha mẹ là điều hết sức quan trọng, không được phép bỏ qua, một bên bên trọng một bên kinh. Vì kinh Phật cũng dạy có cõng cha mẹ đi quanh núi Tu di trăm ngàn kiếp cũng không đủ. Cũng như khi làm Phật sự, cúng dường Tam Bảo, giúp đỡ độ hóa chúng sinh trăm ngàn kiếp cũng không đủ. Đủ để thấy công đức, Phật quả của Đức Phật to lớn đến nhường nào!.
Vây, khi một người xả thân cầu đạo thì có cần nhất thiết phải tách hẳn mối quan hệ máu thịt với anh em cha mẹ mình hay không, theo kiểu nói “ly gia cắt ái” của một số người? Bản thân tôi có biết một vị linh mục trẻ ở nhà thờ nọ, hết lòng với bổn phận truyền giáo, mà đối xử với giáo dân cũng rất tốt, nhưng ông không muốn gặp cha mẹ mình vì thương nhớ con mà phải khăn gói lặn lội từ xa lên thăm. Mỗi lần như vậy, ông thường tỏ ra bực bội. Đây có lẽ là một trường hợp tương đối cá biệt, nhưng cách hành xử như thế có thể không phù hợp! Vấn đề này có thể cũng là một vấn nạn chung cho nhiều vị tu sĩ thuộc các tôn giáo khác, về mối quan hệ giữa một bên là lý tưởng giải thoát hay gì gì đó với một bên là tình cảm đời thường mà phàm con người hầu như ai ai cũng có. Về vấn đề này, Phật giáo dường như mở ra được nhiều lối thoát hơn, mà cách giải quyết hợp tình lý đã được bao hàm trong rất nhiều lời dạy của Phật. Suy cho cùng cha mẹ cũng là chúng sinh, cũng cần bình đẳng, cần yêu thương, cần hóa độ gieo duyên Phật pháp.
Hơn thế nữa, đây còn có thể là một trọng đề mà mọi người Phật tử nên nghiền ngẫm cân nhắc hầu tìm ra cho mình một lập trường và đường lối xử lý dứt khoát thích hợp để có thể an tâm theo đuổi lý tưởng mà không còn đọng lại chút gì lấn cấn trong lòng.
Sách vở bàn về đạo hiếu của các bậc cao nhân cổ đức xưa nay không thiếu, nhưng còn tản mạn. Còn việc đề cập một cách tập trung cho vấn đề này trên cơ sở học thuật vững vàng, có sự so sánh giữa các khuynh hướng đạo lý và nền tảng văn hóa khác nhau, kết hợp lý thuyết với hiện thực sinh động của cuộc sống, trên căn bản lập trường Phật học, thì theo sự hiểu biết của chúng tôi, dường như vẫn chưa có nhiều. Riêng ở nước ta, một loại công trình như vậy có vẻ cần thiết, đáp ứng được nhu cầu tu học và bồi dưỡng đức Hiếu không chỉ đối với hàng tăng sĩ mà còn có thể bổ ích cho hết thảy mọi người bình thường không phân biệt thuộc tín ngưỡng nào, bởi đạo hiếu là đạo chung của thế gian, chứ không chỉ là vấn đề riêng của bất kỳ một ai.
Trong chiều hướng suy nghĩ như trên, khi hay tin thầy Nhuận Đạt tuyển chọn mấy bài viết có giá trị thuộc đề tài hữu quan của một số tác giả là tu sĩ, học giả người Trung Quốc viết về tư tưởng hiểu đạo trong Phật giáo, để phiên dịch ra tiếng Việt cho mọi người cùng xem, lấy cảm hứng từ dịp lễ Vu Lan sắp tới, tôi hết sức vui mừng và khuyến khích. Bản thảo hoàn thành, thầy lại cho tôi xem trước để đánh giá, chia sẻ.
Nhận thấy trong bối cảnh suy thoái chung về văn hóa đạo đức xã hội như hiện nay, với quá nhiều chuyện không vui trong quan hệ gia đình, mà suy cho cùng nết hiếu vẫn là căn cơ nền tảng, tôi cho rằng việc xuất bản cuốn sách này trong lúc này là rất cần thiết và đầy ý nghĩa, nên xin làm có đôi lời để trân trọng giới thiệu đến đông đảo độc giả và các bậc nhân sĩ, tu sĩ hữu tâm với thế đạo.
TRẦN VĂN CHÁNH – 22.7.2012
Nguồn: dtv-ebook.com