Paul Feval
Chàng gù
Chương 1
Cocardasse, Passepoil và những tên giết mướn
Một người cưỡi con ngựa cày, lông bờm và đuôi dài lòa xòa không được chải chuốt, chân khòng và lắm lông; người kia ngồi vắt vẻo trên lưng con lừa, theo kiểu các bà chủ lâu đài vẫn thường cưỡi ngựa đám trong các lễ trọng.
Người thứ nhất trông ra vẻ ta đây lắm, mặc dù phải cưỡi trên lưng một con vật khiêm nhường, nó thõng đầu buồn bã giữa hai chân.
Người thứ hai có vẻ rụt rè và khiêm tốn.
Cả hai thất thểu đi, dưới nắng trưa.
– Này! Đệ, – Cocardasse nói bằng một giọng Gascon đáng sợ, – đã hai tiếng đồng hồ chúng ta thấy cái lâu đài quỷ quái kia trên dãy núi chết tiệt.
Ta cảm thấy nó đi cũng nhanh như chúng ta vậy.
Passepoil trả lời bằng một thứ giọng mũi như hát của người Normand:
– Bình tĩnh! Bình tĩnh ! Chúng ta vẫn cứ là đến sớm chán so với cái việc phải làm ở đó.
– Tiên sư khỉ! Môn đệ Passepoil, – Cocar-dasse nói kèm theo tiếng thở dài thườn thượt, -giá mà chúng ta có được đôi lời tiến cử, thì với tài nghệ của mình, chúng ta nhẽ ra đã có thể chọn cho mình một công việc…
– Huynh nói đúng lắm, tôn huynh Cocar-dasse, – gã Normand đáp lại, – nhưng sự xăng xái đã làm hại chúng ta.
Gã Cocardasse này hẳn là một người đồng hành vui tính khi túi tiền rủng rỉnh; còn môn đệ Passepoil cũng mang trên khuôn mặt láu lỉnh đến hồn nhiên tất cả các dấu hiệu của một tính khí vốn dĩ vui vẻ. Nhưng hôm nay, cả hai gã đều buồn và điều này có lý do của nó: bụng thì rỗng, túi lép kẹp, và trước mắt họ là một công việc cầm chắc là nguy hiểm.
Chính ngài Peyrolles, người tin cẩn của Philippe de Gonzague đã khiến kiếm sư Cocar-dasse và môn đệ Passepoil ra đi như thế.
Họ tới ấp Tarrides vào lúc hai giờ chiều và người nông dân đầu tiên họ gặp đã chỉ cho họ quán Trái táo Ađam.
Khi họ bước vào thì gian phòng nhỏ ở tầng dưới đã gần kín người.
Hai người bạn của chúng ta thoạt đầu chỉ thấy những cặp ria mọc vểnh ra khỏi những bộ mặt gầy guộc, và những thanh gươm dài treo trên tường. Nhưng sáu cái giọng khàn đã đồng loạt hét lên: – Kiếm sư Cocardasse! – Môn đệ Passepoil! Cocardasse đưa tay lên che bên trên mắt để nhìn cho rõ.
– Lè lẹ nào! – gã thốt lên, – todos camaradas! – Toàn các cố nhân cả! – Passepoil dịch ra, có hơi run giọng. Gã Passepoil này là một kẻ nhút nhát bẩm sinh mà sự mưu sinh đã biến gã trở thành dũng cảm.
Bọn họ chúc mừng cuộc hội ngộ bằng cách làm cho rượu vang tuôn chảy, nhưng rồi cũng lấy làm ngạc nhiên là có đến tám người cho một công việc lẽ ra chỉ cần một hoặc hai người, vì ở đây đương nhiên là chuyện đánh đấm. Một gã tên là Staupitz đã gọi bọn họ đến.
Passepoil hỏi: – Thế cái gã khổng lồ sẽ đánh lại tám người tên là gì? Staupitz trả lời: – Công tước Philippe de Nevers.
– Vậy ta hãy nói hắn phải chết! – Saldagne thốt lên.
– Hết hơi! – Pinto đế thêm.
– Lử cò bự, gãy tay chân, lao phổi! – Những tên khác hùa theo.
Cocardasse và Passepoil không nói gì thêm.
Passepoil khẽ lắc đầu, rồi đẩy cốc rượu ra. Gã Gascon cũng bắt chước theo. Vẻ nghiêm túc bất ngờ của chúng không thể không khiến tất cả bọn phải chú ý.
– Tôi thấy rằng, – Cocardasse nói, mắt nhìn quanh khắp lượt, – các vị chưa từng nghe nói đến nhát kiếm của Nevers.
Cả bọn giương mắt và dỏng tai.
– Nhát kiếm của vị kiếm sư già Delapalme, – Passepoil nói thêm, – người đã hạ gục bảy phó kiếm sư từ thị trấn Roule đến cổng Saint-Honoré.
– Họ triệu tất cả các vị đến là phải, các bạn đáng mến của tôi, – Cocardasse tiếp tục nói vẻ trịnh trọng. – Các vị đã nói đến người khổng lồ, tôi thích thà là một tên khổng lồ còn hơn. Chỉ có một người trên đời này, hãy tin tôi đi, có thể địch được Philippe de Nevers.
– Thế người ấy là ai? – Sáu giọng cùng nói một lúc..- Một cái tên mà tất cả các vị đều biết: người đó là hiệp sĩ de Lagardère.
Quả nhiên, có vẻ như bọn chúng đều biết cái tên đó, vì tất cả đều ngồi lặng đi.
Staupitz ngồi bên cửa sổ bỗng reo lên: – Đây rồi ngài Peyrolles, quản gia của hoàng thân de Gonzague.
Peyrolles bước vào.
Passepoil nhấc mũ ra đầu tiên, vẻ hết sức cung kính. Những tên khác đều lễ phép chào. Peyrolles mang trong tay một túi tiền lớn. ông ta ném bịch cái túi lên bàn và nói: – Tối nay, khoảng tám giờ, một người sẽ tới theo con đường mà các vị thấy từ đây, ngay dưới cửa sổ. Người đó đi ngựa. Sau khi vượt qua rìa hào, người đó sẽ buộc ngựa vào trụ cầu. Nhìn đi, ở đó, bên dưới cầu, các vị có thấy một khung cửa sổ thấp, đóng lại bằng các cánh gỗ sồi? – Rõ mồn một, ngài Peyrolles ạ. – Cocardasse trả lời.
– Người đó sẽ lại gần cửa sổ…
– Và khi đó, chúng tôi sẽ đến bắt chuyện với ông ta? – Một cách lịch sự, – Peyrolles ngắt lời với một nụ cười độc ác, – và tiền sẽ thuộc về các vị.
Cocardasse nóng máy đứng dậy: – Tôi biết rõ chuyện này là về hoàng thân Philippe de Lorraine, công tước de Nevers.
– Anh biết nhiều chuyện đấy. – Peyrolles nói.
– Hơn nữa, những người bạn cao quý của tôi cần phải biết rằng Aurore de Caylus là vợ ông ta.
Lần này Peyrolles tái mặt và ấp úng: – Làm sao anh biết được, hả? – Tôi còn biết rằng, – Cocardasse tiếp tục, -hôn lễ đã được tổ chức bí mật, cách đây bốn năm, mà không được người cha ưng thuận. Người ta có thể tin rằng ngài de Caylus đã biết chuyện hôn lễ và muốn trả thù người con rể. Nhưng đâu có phải là như thế; vậy nên chúng tôi không làm việc cho ông ta. Chỉ có hai người làm chứng cho hôn lễ biết việc này và hai người đó, nếu như tôi biết không sai, là ngài và ông chủ quý tộc của ngài… Mà người đó, Philippe de Gonzague xem ra không có nặng lòng gì với ngài de Nevers! Tất cả im lặng. Ngài Peyrolles là người phá vỡ sự im lặng đó.
– Các anh muốn gì? – Hãy tăng số tiền gấp ba.
– Được, – Peyrolles trả lời không chút lưỡng lự.
– Thứ nữa, xong việc tất cả chúng tôi đều thuộc về nhà Gonzague.
– Được. – Gã quản gia lại nói.
Cocardasse đưa mắt dò hỏi môn đệ Passepoil trước, rồi đến những tên đồng bọn khác.
– Thỏa thuận. – Gã nói.
Peyrolles ra khỏi cửa.
Mới bốn giờ chiều. Những tên giết mướn còn nhiều thời gian.
Bỗng có tiếng ngựa ở phía bìa rừng Ens và lát sau, mọi người nghe thấy tiếng hò hét dưới hào.
Bọn họ có tám người, những tình nguyện quân của nhà vua do một người tên là Carrigue chỉ huy. Không nghi ngờ gì nữa, biển hiệu của quán Trái táo Ađam đã thu hút họ. Tất cả xuống ngựa và buộc ngựa vào những cái vòng đóng trên tường quán rượu. Họ bước vào.
Cho đến lúc đó, các kiếm khách của chúng ta vẫn không nhúc nhích.
Mười sáu thanh kiếm cùng hoa lên một lúc.
Tất cả đều là những người lính chiến khỏe khoắn, dũng cảm và thích gây gổ. Họ rất hợp và tận tình với nhau.
Giọng nam cao của Cocardasse lấn át đám đông láo nháo bằng những tiếng rủa ưa thích của gã: – Con khẹc! Xơi chúng đi! Xơi chúng đi! -Gã nói.
Carrigue và đồng bọn cúi gằm đầu xông tới, miệng đáp trả: – Xông lên! Lagardère! Lagardère! Sự việc thay đổi thật bất ngờ. Cocardasse và Passepoil, đứng ở đầu hàng, liền lùi lại và kéo dịch chiếc bàn lớn giữa đôi bên.
– Lè lẹ nào! – Gã Gascon hét. – Tất cả hạ vũ khí xuống! Đã có ba hoặc bốn tình nguyện quân bị đánh quá tay. Cuộc tấn công của họ không đạt kết quả và chỉ giờ đây họ mới biết mình đang có việc với ai.
– Các vị nói sao? – Môn đệ Passepoil tiếp lời, giọng run lên vì xúc động. – Các vị nói sao cơ? Cớ sao các vị hô Lagardère? – Bởi vì Lagardère là thủ lĩnh của chúng tôi.
– Carrigue trả lời.
– Hiệp sĩ Henri de Lagardère?.- Phải. Ngài chỉ huy một đại đội tình nguyện quân của nhà vua ở đây, trong thung lũng.
– Vậy thì, – gã Gascon nói, – nghỉ thôi! Tra kiếm vào vỏ! Mẹ khỉ! Bạn của tiểu tướng Paris cũng là bạn của chúng ta và chúng ta sẽ cùng uống chúc mừng lưỡi gươm hàng đầu thế giới.
– Hay lắm! – Carrigue nói và cảm thấy quân mình đã thoát nạn.
Các vị tình nguyện quân của nhà vua vội vã tra gươm.
Trong lúc cô hầu bàn đi lấy rượu mới dưới hầm, mọi người chuyển ghế và bàn ra ngoài thềm cỏ, vì gian dưới của quán rượu Trái táo Ađam quả là không đủ rộng để chứa cả bấy nhiêu con người dũng cảm. Chẳng mấy chốc, tất cả mọi người đều vui vẻ và thoải mái ngồi vào bàn trên thềm dốc.
Carrigue và các thuộc hạ phấn chấn nâng cốc.
Mọi người đứng uống. Các kiếm khách cũng vậy.
Mặt trời đã ngả xuống sau đám cây rừng.
Carrigue và đám thuộc hạ đã nói đến việc xin kiếu và mọi người uống một lượt cuối cùng chúc mừng cuộc tao ngộ hiếm có. Bỗng Saldagne nhận thấy một đứa bé đang trườn dưới hào và cố giấu mình khỏi bị phát hiện.
Đó là một cậu bé khoảng mười ba, mười bốn tuổi, nó có vẻ sợ sệt và rất hốt hoảng. Cậu bé mặc quần áo thị đồng nhưng không màu mè, bụng thắt một chiếc thắt lưng của người đưa thư.
Bọn chúng nhanh chóng bắt được cậu.
– Lè lẹ nào! – Cocardasse bảo cậu, – bọn ta không muốn lột da chú mày, nhóc ạ. Chú mày mang lá thư này cho ai? – Một lá thư? – Cậu bé thị đồng hỏi lại.
Passepoil hét: – Mày sinh ở Normandie hở, nhãi con? Cậu bé lại lặp lại: – ở Normandie? – Đành phải lục soát nó thôi. – Carrigue lên tiếng.
– ồ không! Không! – cậu bé thị đồng thốt lên và quỳ sụp xuống, – đừng có lục soát tôi, xin các ngài! Như thế có khác nào thêm dầu vào lửa.
Passepoil nghĩ lại và nói: – Nó không phải là dân trong vùng, nó không biết nói dối! – Mày tên là gì? – Cocardasse xen vào.
– Berrichon, – cậu bé nói không chút lưỡng lự.
– Mày làm cho ai?.Cậu bé thị đồng câm lặng. Các kiếm khách và tình nguyện quân bắt đầu mất kiên nhẫn.
Saldagne nắm lấy cổ cậu, trong lúc cả lũ nhắc lại: – Nào, nói đi! Mày phục vụ ai? Nhưng Berrichon đã khôn khéo nhảy thoát ra. Việc đó khiến cho nhiều kiếm khách phải ra tay, nhưng vào phút chót, đúng lúc họ sắp tóm được cậu, cậu bé rụt rè bỗng biến thành một con thú hoang và sấm sét giáng xuống những kẻ hành hạ cậu.
Carrigue ngã văng ra xa ba bốn bước, chân chổng lên trời, Saldagne xoay tròn và bắn vào vách lũy, Staupitz rống lên và sụp xuống như một con bò bị đánh đập, còn Cocardasse thì lộn nhào và nằm sóng soài trên đất.
Tất cả sự huyên náo ấy chỉ do một người tạo ra trong nháy mắt, và có thể nói là bằng cùng một cú đánh. Một vòng người đứng vây rộng xung quanh người mới đến và cậu bé. Không một lưỡi kiếm nào được rút ra khỏi vỏ. Mọi cặp mắt đều nhìn xuống.