Báo Thù

white noise for sleeping link
shopee-sale

Jim Harrison

Báo thù

Dịch giả: Thanh Vân

Chương 1

 

Báo thù là một món ăn, tốt nhất nên dọn lúc đã nguội 
(Ngạn ngữ cổ Sicily).    Bạn không thể nói người đàn ông trần truồng kia đã chết hay còn sống, nếu bạn là con chim đang sà xuống (mà có một con chim đang sà xuống thật, một con kền kền). Chính người ấy cũng không biết và con chim ngập ngừng lúc đáp xuống mặt đất, kêu rền rĩ lúc đến bên cạnh, nghi ngờ và nhìn vào khu rừng rậm như thể mong đàn chó sói. Xác chết đã thối sẽ được chia theo một kiểu không do những kẻ chung phần muốn, mà theo kiểu đã định sẵn, từ trước khi bất cứ kẻ nào biết đến. Con kền kền vừa ăn một con rắn chuông bị xe tải chẹt chết ở ngoài Nacozari de Garcia, một thành phố nhỏ hấp dẫn du khách, cách Nogales khoảng một trăm dặm. Lũ chó sói sẽ theo vòng lượn của con kền kền vì tò mò, dù chúng trong cuộc săn đêm còn đói hay không. Khi buổi sáng ấm lên, kền kền sẽ tới đông thêm cho đến lúc người đang chết kia có người nhòm ngó.Giữa buổi sáng lúc trời sáng rõ, sức nóng đã hun khô và đóng bánh lớp máu trên mặt người đàn ông, máu hầu như đã mất mùi tanh của đồng. Người đang hấp hối lúc này chập chờn, phần lớn vì hơi nóng và mất nước hơn là vì những vết thương: một cánh tay bị vặn xoắn, một vết bầm lớn màu xanh lơ trên ngực, một bên gò má vỡ vụn, máu trào ra giống như mặt trời đỏ tía, hai hòn cà sưng phồng. Máu từ cái đầu bị thương làm đen thẫm cát sỏi và dìm anh ta vào giấc ngủ hôn mê gần như chí tử. Anh ta vẫn còn thở, luồng không khí nóng rít như còi qua chiếc răng vỡ và lúc tiếng còi rít lên đặc biệt to, lũ chim kền kền đâm lúng túng. Một con sói cái và những con sói con vừa cai sữa dừng lại nhưng chỉ một lúc thôi: sói mẹ đớp lũ con như muốn nói cái sinh vật tầm thường này chỉ bị nguy cấp xoàng xoàng thôi. Nó gật gù lúc đi ngang qua một con sói đực già rất to dưới bóng một tảng đá mòn đang tò mò ngắm nghía. Nó nhìn rồi gà gà ngủ, ngay cả trong giấc ngủ vẫn cảnh giác mà chúng ta không biết. Bụng nó đầy javelina và nó rình người đàn ông đang hấp hối chỉ vì đã từ lâu, đấy là vật thú vị nhất bất ngờ trên đường của nó. Tuy vậy tất cả chỉ vì tò mò: khi người chết, sói sẽ bỏ đi ngay, để lại cho lũ kền kền. Đây là chuyến thức canh suốt đêm của nó, vì nó ở gần ngay đó lúc người đàn ông trần truồng kia bị ném khỏi xe ô tô trong đêm qua.Trong buổi chiều tương đối mát mẻ đầu tiên, một nông dân Mexico (peóne theo tiếng lóng của Mexico) và cô con gái đi dọc con đường, len vào các bụi cây nhặt củi. Đúng hơn là người đàn ông đi lầm lì dưới bó củi nhẹ, còn cô bé nhảy lò cò hết chân này đến chân kia, nhảy chân sáo và chạy rồi đợi bố. Em là con một và bố em không muốn để em đi nhặt củi, sợ bị bò cạp cắn, hoặc bị corallo, một loài rắn đỏ như san hô không có tín hiệu báo trước như rắn đuôi chông, dù nó nhút nhát và hay xa lánh nhưng không có nghĩa là không nguy hiểm. Nó chỉ cắn khi bị dồn vào thế bí hoặc bị trêu chọc, rồi trườn đi và lặng lẽ rút vào dưới một khúc gỗ hoặc một tảng đá. Cô bé mang theo quyển Kinh Thánh. Em giúp việc trong bếp của hội truyền giáo Mennonite (1), nơi cha em làm quản gia từ lâu.Cô bé bắt đầu hát làm lũ chim kền kền còn cách con đường khoảng một trăm mét vỗ cánh bay đi. Đằng nào chúng cũng phải đến các lùm cây trên núi cho an toàn trước khi trời tối. Con sói rút vào chỗ bóng râm dày đặc hơn. Nó nhận ra tiếng người đàn ông và cô con gái, và từ bảy năm trên đời nó đã biết họ có thể nguy hiểm cho nó. Nó đã theo dõi họ trên con đường đến hội truyền giáo không biết bao nhiêu lần, nhưng họ chưa bao giờ nhìn thấy nó. Những con chim lớn vỗ cánh bay trong ánh trời chiều khơi dậy sự tò mò của người cha và anh ta rảo bước. Không như con sói, anh có tính hiếu kỳ của người đi săn, anh nhớ lại có lần gặp một con hươu to bị rơi từ vách núi xuống và sau đó là lũ chim kền kền lượn tròn. Anh bảo con gái đợi cách đó một quãng và thận trọng bước vào khu rừng rậm dọc theo con đường. Nghe thấy tiếng thở gấp và tiếng rít yếu ớt, anh vội rút con dao dài có cán nạm ngọc ra. Anh bò không một tiếng động tới thẳng chỗ có tiếng rít, ngửi thấy mùi máu giữa đám phân kền kền. Rồi nhìn thấy người đàn ông và anh vừa huýt còi ra hiệu, vừa quỳ xuống bắt mạch. Những lúc rỗi rãi, anh hay theo nhà truyền giáo đồng thời là bác sĩ trong những chuyến đi vất vả lên núi, và đã học được nhiều cách sơ cứu cơ bản. Lúc này anh đứng, huýt sáo hoà với người hấp hối và nhìn lên trời. Giống hầu hết dân da đỏ, ý nghĩ đầu tiên của anh là bỏ đi, tránh bất cứ mọi tiếp xúc với cảnh sát Liên bang. Nhưng viên bác sĩ đánh bạn với nhiều nhân viên liên bang và anh nhớ đến truyện ngụ ngôn về người hay làm phúc và nhìn xuống thân người, thôi thì đằng nào ta cũng giúp nhưng chắc là quá muộn rồi.Anh ra khỏi bụi cây và bảo con gái chạy về hội truyền giáo cách đó nửa dặm, dưới thung lũng. Anh ngồi xổm bên lề đường và lăn lưỡi dao tới lui trên lớp sỏi. Cảnh tượng người bị thương trầm trọng làm tim anh đập nhanh hơn, nhưng anh bình tĩnh nhẩm lại câu chuyện tìm thấy người đó. Hồi trẻ, ngoài việc đi săn, anh đã từng là kẻ cướp vặt và hiểu rằng khi nói với các nhà chức trách, tốt nhất là phải giữ cho mọi sự thật đơn giản.Ở hội truyền giáo, Diller đang ngồi ăn món thăn lợn rán với dưa cải bắp và khoai tây. Cái radio VHF của ông ta ngân nga giai điệu của dàn nhạc Mariachi ở Chihuahua. Dù là một Mennonite và chính thức chê bai radio, ông cảm thấy xứng đáng có một số nhượng bộ nhất định và bắt đầu lắng nghe loại âm thanh này từ mười năm nay, trước khi đến hội truyền giáo dưới chiêu bài đẩy nhanh việc học tiếng Tây Ban Nha thông dụng. To lớn và hồng hào, ông ta gần như kêu inh ỏi theo tiếng nhạc làm đám đàn bà trong bếp bật cười. Nhà thờ không cho phép uống rượu hoặc hút thuốc, nhưng Diller có một thói xấu không bị cấm là tính phàm ăn. Chiều thứ Năm nào ông cũng thưởng thức món thăn lợn nấu cho ông, như dấu vết duy nhất còn lại của cuộc sống ở Mỹ. Ông thích các món ăn Mexico hơn, và ăn nhiều đến mức trở thành truyền thuyết khắp vùng. Ông không phải là người mộ đạo nhiệt thành, nhưng ông hiểu chính nghề bác sĩ và tài khéo trong y học đã dán cho ông cái nhãn của Chúa Jesus, rất được sùng bái ở vùng núi kiệt quệ này. Ông không về Mỹ trong những chuyến nghỉ phép mỗi năm một tháng nữa. Cái cảnh ba mươi ngày ngồi ở Bắc Dakota và cầu nguyện cho những kẻ ngoại đạo trên toàn thế giới làm ông chán ngắt. Diller khá thích những kẻ ngoại đạo và vẻ đẹp dãi dầu của vùng họ, những nỗi trớ trêu phải chịu đựng và thuyết định mệnh của thời tiền – Cơ đốc. Ông thích ăn thịt gà, thịt lợn, lợn sữa, dê và cừu mà dân chúng đưa đến làm quà khi ông thực hiện được một kỳ công nào đấy trong y học. Thậm chí ông quý cả anh chàng y tá Antonio ẻo lả, lúc nào cũng tìm ra cớ để lái xe đến Nogales hoặc Hermosillo. Một năm trước, cha đạo của hội truyền giáo đã đến thăm và hỏi Diller có phải Antonio là loại “hơi đặc biệt” không. Diller câm tịt, giữ kín tài nấu ăn của Antonio, anh ta biết nấu những món ăn lạ lùng không có trong sách, và hát rất hay những khúc ballad dù cho các giống trong khúc ca có khuynh hướng đổi giới tính. 

Diller rên lên khi con gái của Mauro chạy ào vào, kêu tướng lên là có người bị thương ở trên núi. Cô bé lôi cái túi cứu thương ra chiếc Dodged Powerwagon nay dùng làm xe cấp cứu, có tấm vải bạt phủ nóc và lều ở đằng sau. Diller đi sau, mang theo món thịt hầm. Ông khoái món dưa bắp cải ở đáy đĩa đẫm mỡ lợn. Diller đứng lại trên hiên của đồn điền và hít thật sâu mùi không khí ban chiều: mùi phân bón và mùi đinh hương ngọt ngào, những bông hoa nhàu nát đang thối rữa, mùi của những tảng đá và cát quá nóng đang nhạt dần trong đêm. Diller yêu thích thung lũng vì nó có vẻ tối tăm và nhiều bóng râm ngay cả trong lúc nắng rực rỡ.Tại hiện trường, Mauro cầm đèn pin soi trong lúc Diller lau mỡ lợn trên bàn tay vào quần và cúi xuống thân người, đọc lời cầu nguyện rồi khám kỹ và dự đoán. Ông không tin người đó sẽ sống vì trong hai mươi tư giờ đầu tiên thật bấp bênh, anh ta đã bị mất nước nghiêm trọng. Sọ không bị nứt nhưng tròng mắt đưa qua đưa lại cho thấy bị chấn thương nặng. Diller lấy đèn bỏ túi ra và cúi xuống gần mắt người đàn ông trần truồng xem chỗ sưng phồng thành núm trong nhãn cầu, một chấn thương rất nghiêm trọng. Sau đó ông lướt đôi tay to lớn, thành thạo lên thân người, khẳng định bị gãy xương sườn và cánh tay trái. Diller luồn cánh tay xuống dưới thân người đàn ông và nâng anh ta lên. Mauro cầm túi và chiếu đèn soi đường.Về đến bệnh viện, Diller làm việc suốt đêm có Mauro phục dịch. Ông muốn Antonio ở đó giúp nhưng anh chàng đã biến mất vì những lý do giả mạo như thường lệ. Diller hơi hoang mang vì người bệnh. Dưới ánh đèn pin, ông thấy một việc đáng thương nữa, nạn nhân đã bị cuộc chiến ma tuý nổ ra gần biên giới hành hạ. Những kẻ tị nạn như thế này đã cung cấp cho Diller vài ca thú vị nhất, xen kẽ với các nạn nhân ung thư của người cao tuổi thông thường, hay trộn Dilaudid mạnh với thuốc để dễ dàng lên thiên đường. Lúc đã lau sạch máu, mới thấy rõ người đàn ông trần truồng này chắc chắn là người nước ngoài: tóc anh ta cắt rất đẹp, răng bọc vàng đắt tiền, móng tay cắt tỉa cẩn thận và làn da rám nắng mặn mà, thân thể lành lặn, cường tráng, mọi vẻ làm anh ta khác hẳn bọn buôn lậu.Sắp rạng đông, Diller mỉm cười thấy mạch đập đã đều và có phản ứng với dung dịch trong tĩnh mạch. Ông thận trọng thăm khám kỹ chỗ xương hàm vỡ vụn, sau này sẽ phải làm phẫu thuật thẩm mỹ nếu anh ta muốn. Mauro lau làn da rám nắng bằng giấm và dùng gạc nóng lau hai tinh hoàn sưng phồng, nói đùa trong lúc làm việc mệt nhọc rằng đây là việc tốt nhất cho Antonio. Bác sĩ không nhịn được cười phá lên, dù đó là việc không thể trong lúc vẫn còn khó khăn như thế này. Bác sĩ hát La Paloma trong lúc băng bó các dẻ sườn, Mauro hoà theo bài hát tuyệt vời bằng cái nhịp trẻ con của anh ta.Mauro và bác sĩ chuyển người đàn ông vào phòng riêng duy nhất trong bệnh viện rồi ra hành lang, con gái của Mauro dọn cà phê cho họ lúc trời vừa hè sáng. Diller nháy mắt với Mauro, cho anh ta một viên Dexamyl và tự uống một viên. Mauro mỉm cười vì điều bí mật nho nhỏ này; suốt thời gian cấp cứu họ không được ngủ, anh ta thích uống mescal (1) giấu dưới gầm giường của anh ta hơn, dù đã tuyên thệ công khai ở nhà thờ chống lại các loại rượu cồn. Từ lâu rồi, vào năm thứ hai ông ở hội truyền giáo và vợ ông đã bỏ ra đi vĩnh viễn, giải thích trong cơn cuồng loạn rằng bà không thể chịu nổi cuộc sống ở Mexico và bà không còn yêu ông nữa, Diller đã ngồi trên mảnh sân đất suốt đêm và khóc trong lúc người giúp việc hoảng sợ, đứng trong hàng hiên của ấp trại theo dõi ông. Giữa cái đêm lâm ly ấy, Mauro đã mang đến cho Diller cả lít mescal và ông đã uống một cách thèm khát. Diller ngủ suốt một ngày nóng bức trên đất, mọi người lần lượt che mặt cho ông và giữ cho ruồi khỏi bâu. Diller mỉm cười khi nhớ lại nỗi đau ấy.Lúc này những tia nắng đầu tiên đã nhuốm màu nâu vàng một bên đỉnh núi. Cái mầu riêng biệt ấy làm màu nâu trên sườn núi đầy đá nhạt đi, luôn nhắc ông nhớ đến sườn hươu và sáng nay, sườn hươu lại làm ông nhớ đến những lát thịt hươu. Thịt lợn và dưa bắp cải không còn ngon nữa, ông quyết định bỏ và hoà nhập hoàn toàn với cộng đồng bản xứ. Con gà trống gáy làm ông nghĩ đến món gà quay. Người nấu bếp gọi to và Diller cùng Mauro vào bếp, họ ăn một bát to menudo và bánh ngô. Ông tin như dân Mexico rằng món lòng hầm nhừ rất bổ, dù ông sẽ không tin như thế nếu không thích món này. Ông là người có khẩu vị nhất định. Ông lo những sở thích ấy sẽ giết ông từ từ vì ông đã tăng đến 135kilô, dù ông có bộ khung to lớn và cơ bắp nặng nề. Dexamyl làm máu gõ trống trong tai ông; mang theo sự bất hạnh lan tràn khắp vùng quê, ông thích thú đùa bỡn với thần Chết. Sau bữa sáng, ông vừa đi dạo vừa hát những bài hát ngắn về tình yêu và cái chết. Ông thầm nhận xét rằng bệnh nhân cần có dạ dày thật khoẻ để chịu được nỗi đau khi hết cơn bất tỉnh.Chiều hôm ấy, Hector, đại uý cảnh sát liên bang khu vực ghé đến lập biên bản về người bị thương. Lúc nửa ngày nhận báo cáo qua điện tín, ông ta vui vẻ ra lệnh cho trợ lý chuẩn bị xe jeep để đi suốt đêm. Đến thăm bác sĩ có nghĩa là được chén lu bù và chơi cờ suốt đêm, bàn luận về nghề làm vườn, về chính trị, về việc nuôi gia súc làm thức ăn, và cuối cùng là có dịp nói về sức khoẻ của ông ta, vì ở độ tuổi năm mươi lăm, Hector mắc chứng nghi bệnh và lo lắng về khả năng giao cấu yếu ớt của mình. Ông ta kính trọng sự mộ đạo sâu sắc của bác sĩ nên chỉ nhắc đến khía cạnh y học của khả năng giao cấu một cách tế nhị, điều ấy làm bác sĩ thú vị và ông khuyên nên giảm uống rượu và hút thuốc lá, năng tập thể dục. Lời trêu chọc cuối cùng là gợi ý có lẽ Hector quên mất conchitas của ông ta vì những mối quan tâm thiêng liêng mất rồi. Gần đây bác sĩ cảm thấy rất hoảng vì đã thèm khát lúc ông chữa cho một cô gái sơn cước hấp dẫn bị bò cạp cắn vào chỗ trên cùng ở bắp đùi. Ông đã cầu nguyện nhiệt thành nhưng có ẻ như nó chẳng giúp gì mấy, ý nghĩ của ông cứ trở lại năm đầu lấy vợ ở Bắc Dakota, ông và người vợ trẻ măng của ông đã làm tình đến kiệt sức.Khi Hector và trợ lý đến, họ đến ngay chỗ người bị thương nhằm giải quyết cho xong những thủ tục tẻ nhạt, để có thể vui chơi cả buổi tối. Bác sĩ cấm lấy vân tay vào lúc này, ông nói sẽ gửi ngay vân tay khi nào các vết thương khá hơn. Trong vụ này, ông sẽ gửi cả dấu vân tay của chính ông vì không muốn gây rắc rối cho bất cứ ai. Những người Mennonite không bao giờ giở luật ra với nhau và bác sĩ áp dụng nguyên tắc này cả trong lúc hành nghề. Ông chăm sóc cả phần hồn lẫn phần xác và tin rằng các nhà cầm quyền dân sự có đủ thiết bị để tiến hành công việc mà không cần ông trợ giúp. Hector rất mừng vì sẽ có chuyến trở lại để thẩm vấn, còn bác sĩ định sẽ xui bệnh nhân giả vờ mắc chứng quên nếu anh ta muốn thế, hoặc làm bất cứ việc gì miễn là thoát khỏi thói quan liêu và hình phạt nghiêm khắc theo luật dân sự của Mexico. Viên trợ lý lập một biên bản chiếu lệ với thông tin sơ sài của Mauro và sau đó họ đến quán rượu dưới thung lũng để gây ấn tượng với dân địa phương. Hector và bác sĩ ngồi ăn một bữa thịnh soạn, nhiều món, Hector làm ra vẻ mệt nhọc như người đã xong công việc suốt một ngày dài và không muốn nhớ lại.
——

Đánh giá bài viết
Xin lỗi vì sự bất tiện này! Nhưng mình làm affiliate để tự trang trải chi phí duy trì server, mong các bạn thông cảm.
Quảng cáo sẽ tự ẩn đi trong vòng 30 giây

Sách cùng tác giả