Nhìn lại cuộc Đại khủng hoảng 1929-1933
Ngày 24 tháng 10 năm 1929, Phố Wall rối loạn. Gần 13 triệu cổ phiếu ‒ nhiều gấp ba lần số lượng giao dịch thông thường ‒ bị các nhà đầu tư hoảng loạn bán tháo trên thị trường chứng khoán New York. Ngày này đi vào lịch sử như ngày thứ Năm đen tối (Black Thursday) mở đầu cho cuộc Đại khủng hoảng (Great Crash) của thị trường chứng khoán Mỹ và cuộc Đại suy thoái (Great Depression) kéo dài từ năm 1929 tới năm 1933. Chỉ số Dow Jones sụt giảm từ mức cao kỷ lục 381,2 ngày 3 tháng 9 năm 1929 xuống còn 230,1 ngày 29 tháng 10 năm 1929 và đạt điểm đáy ngày 6 8 tháng 7 năm 1932 khi đóng cửa ở mức 41,2 − giảm gần 90% so với mức đỉnh nó từng đạt được ba năm trước. Cuộc khủng hoảng trên thị trường tài chính kéo theo suy thoái kinh tế trầm trọng trên phạm vi toàn cầu. Riêng tại Mỹ, sản xuất công nghiệp giảm 45%, GDP giảm 30%, tỷ lệ thất nghiệp lên tới 25% và 60% người Mỹ sống dưới ngưỡng nghèo khổ.
Gần 80 năm sau cuộc Đại khủng hoảng xảy ra, thế giới lại đang phải chứng kiến sự quay trở lại của tình trạng suy thoái và khủng hoảng toàn cầu. Không khó khăn trong việc nhận ra những điểm tương đồng giữa hai cuộc khủng hoảng toàn cầu này: chúng đều bắt đầu từ những đổ vỡ trong hệ thống tài chính, là hậu quả của tình trạng đầu cơ tài chính − địa ốc trong cơn lốc xoáy của tham vọng làm giàu dễ dàng. Như triết gia George Santayana(1) đã nói: “Quá khứ nếu không nhớ thì không biết đường nào dẫn đến tương lai!”
Trong khi cơn bão khủng hoảng và suy thoái, thất nghiệp và bất ổn đang lan ra khắp thế giới, có lẽ đây chính là lúc thích hợp nhất để đọc lại lịch sử cuộc đại suy thoái toàn cầu đầu tiên trên thế giới, để học được từ những kinh nghiệm quá khứ, và để thấy rằng con người ở mọi thời thật giống nhau, với những sai lầm dại dột không mấy khác biệt. Tác phẩm Ác mộng Đại khủng hoảng 1929 của John Kenneth Galbraith có thể là một kiệt tác viết về Đại khủng hoảng, và hơn thế, về những sai lầm, ngớ ngẩn của con người trong tham vọng kiếm tiền nhanh chóng.
John Kenneth Galbraith (1908-2006) là một trong những nhà kinh tế có ảnh hưởng nhất trong lịch sử nước Mỹ. Ông là người theo trường phái Keynes nhiệt thành, ủng hộ sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế, từng làm việc trên nhiều cương vị khác nhau trong chính quyền của bốn đời tổng thống Mỹ thuộc Đảng Dân chủ: Roosevelt, Truman, Kennedy và Johnson. Bảo vệ thành công luận án tiến sĩ Kinh tế Nông nghiệp tại Đại học Berkeley ở California, ông dạy tại Đại học Harvard trong nhiều năm và từng làm Chủ tịch Hiệp hội kinh tế Hoa Kỳ. Trong cuộc đời gần 100 năm của mình, ông viết gần 50 cuốn sách và hơn 1.000 bài báo về nhiều chủ đề nhưng chủ yếu là kinh tế. Nhiều cuốn sách của ông bán rất chạy, và có ảnh hưởng sâu sắc tới tư duy kinh tế của một tầng lớp trí thức Mỹ trong nhiều thập kỷ, nhất là trong giai đoạn 1950-1970. Có thể nói Galbraith là nhà kinh tế được công chúng biết đến nhiều nhất tại Mỹ trong giai đoạn hậu chiến tranh cho tới khi trường phái Keynes thoái trào và trường phái tiền tệ − với đại biểu xuất sắc là Milton Friedman − lên ngôi.
Ác mộng Đại khủng hoảng 1929 (The Great Crash of 1929) là cuốn sách đầu tiên thật sự đưa tên tuổi của Galbraith đến với công chúng Mỹ và cho tới nay, vẫn được coi là cuốn sách cần phải đọc đầu tiên nếu muốn tìm hiểu về nguyên nhân sụp đổ tài chính năm 1929 tại Mỹ. Trong cuốn sách này, Galbraith đã chỉ ra con đường dẫn tới đại khủng hoảng ở Mỹ. Bắt đầu từ việc đầu cơ bất động sản ở Florida những năm 1920, nền kinh tế Mỹ rơi vào tình trạng bong bóng với việc các nhà đầu tư mua bất động sản với giá trời ơi để đầu cơ sinh lời, hy vọng rằng giá cả thị trường tiếp tục tăng. Các ngân hàng hà hơi tiếp sức cho những hành động đầu cơ bằng việc cho vay dễ dàng. Thị trường chứng khoán ngày càng phồng lên, cho tới khi “vỡ tung” vào cuối năm 1929, đưa kinh tế Mỹ vào cuộc suy thoái tồi tệ nhất trong lịch sử. Đọc Galbraith, dường như chúng ta bắt gặp lại những hiện tượng mới xảy ra ở Thái Lan năm 1998, ở Mỹ, Iceland hay ở Việt Nam thời gian gần đây.
Ác mộng Đại khủng hoảng 1929 được viết bằng ngòi bút hết sức sắc sảo và trôi chảy, đượm chất hóm hỉnh trong những quan sát của Galbraith về hành vi con người trong khi xảy ra bong bóng đầu cơ và cuộc đổ vỡ thị trường con người. Để nói về cuốn sách, có lẽ hợp lý hơn khi dùng chính lời của Galbraith kể về việc viết nó: “Tôi chưa bao giờ cảm thấy vui sướng khi viết một cuốn sách như khi viết cuốn sách này. Đây thật sự là cuốn sách duy nhất đọng lại trong tôi không phải là sự nhọc công lao động mà là niềm sung sướng.”
Cuối cùng, để kết thúc, xin mượn lại lời của John Kenneth Galbraith trong cuốn sách như một lời cảnh tỉnh cho thói tự tin thái quá (và cả tin) của con người: “Một bài học quý của năm đó cho đến giờ đã trở nên rõ ràng: Tai họa cá nhân và cụ thể sẽ xảy đến với những ai muốn tin rằng họ nhìn thấy tương lai.”
Hà Nội, 4/2009
TS. VŨ HOÀNG LINH
Nguồn: dtv-ebook.com