Trong đêm thanh vắng của đêm trăng suông vẳng lên tiếng vó ngựa trên mặt đường. Eo óc gà gáy rộn lên rồi tắt, nhưng tiếng vó ngựa không tắt mà lại càng rõ, càng vội, càng lúc càng gấp.
Trên ngựa ; một tên lính đô hộ cuối rạp mình, mặt sát vào bờm ngựa, tay cầm một thanh đao to bản và ngắn, sống dày có đường gờ nổi lên là kiểu đao thông dụng của quân lính đô hộ trong các huyện miền Hải Đông, quận Giao Chỉ.
Chợt có tiếng mõ nổi lên cắt ngang tiếng vó ngựa. Mặt đường ngập trăng, lố nhố những người cầm giáo và gậy. Có tiếng quát : ” Ai đó ? Xuống ngựa ! “.
Con ngựa chồm lên, hất tung hai vó trước lên trời rồi đập mạnh xuống mặt đất, dừng lại, mũi thở phì phì. Tên lính đô hộ dướn thẳng người trên mình ngựa cất cao giọng nói tiếng Việt rất sõi : ” Cho ta đi, có hỏa bài của Sái huyện úy đây !”.
Nghe nói tới hỏa bài của huyện úy, đám người cầm giáo vây kín lấy tên lính đô hộ và tiếng lào xào nổi lên. Tên lính hỏi, giọng hách dịch : ” Đây là đâu ? Các anh là tuần dũng làng nào ? “. Một người nói buông thõng : ” Làng Kèo ! “. Tên lính Hán tỏ vẻ vui mừng : ” Kèo rồi à ? Được, được ! “, bèn hất chiếc nón rộng vành xuống đất và nói : ” Đây, anh em cả đây, hãy cho xin bát nước đã ! “. Mọi người đưa tên lính vào điếm. Ánh đuốc bật lên.
Một lát sau, tiếng ngựa lại rộn vang trong đem cuối thu trời se lạnh. Ba con ngựa như ba mũi tên lao đi, và một người trong bọn cất tiếng : ” Không phải tới Sêu nữa ! Tới ngã ba Cây đa, chúng ta rẽ tay phải ! ”