Tam Tổ Trúc Lâm

white noise for sleeping link
shopee-sale

LỜI ĐẦU SÁCH

Phật giáo đời Trần mang đậm nét siêu thoát và quần chúng của Phật giáo Nguyên thủy ở Ấn Độ. Xưa kia tại Ấn Độ, một ông Hoàng thái tử chứng kiến nỗi khổ đau muôn thuở của con người, Ngài quyết chí đi tu để tìm phương giải phóng con người ra khỏi vòng trầm luân khổ ải. Ngài đã thực hiện được chí nguyện, sau khi chứng đạo thành Phật dưới cội bồ-đề, và tiếp tục đi rao giảng phương pháp giải thoát hơn bốn mươi năm. Sau trên mười chín thế kỷ, ở Việt Nam đời Trần, vua Trần Nhân Tông cũng thấm thiết nỗi đau khổ của con người, Ngài từ bỏ ngai vàng vào núi Yên Tử tu hành được ngộ đạo thành Tổ, và ngót hai mươi năm đi truyền bá khắp nơi, lập thành hệ phái Trúc Lâm Yên Tử. Tiếp theo sau, một vị Trạng nguyên cũng cùng một tâm tư ấy, từ quan đi tu đuợc ngộ đạo thành Tổ thứ ba của phái Trúc Lâm Yên Tử. Đức Phật và chư Tổ Trúc Lâm Yên Tử cùng một nguyện vọng một tâm tư vì giải thoát sanh tử cho chính mình và độ chúng sanh thoát khỏi trầm luân muôn kiếp nên đi tu. Đây là giá trị chân thật cũng là danh dự lớn lao của Phật giáo Việt Nam, khiến chúng ta không hổ thẹn với các nước Phật giáo bạn.

V ới tinh thần khôi phục lại Phật giáo đời Trần, chúng tôi cho xuất bản quyển Tam Tổ Trúc Lâm để giới thiệu cùng Phật tử Việt Nam có cơ hội nghiên cứu và học tập. Lý đáng chúng tôi phải căn cứ một nguyên bản chữ Hán và cho in đầy đủ ở phần sau, song vì những quyển Tam Tổ Thực Lục, Tam Tổ Hành Trạng… còn nhiều thiếu sót, nên chúng tôi không thể căn cứ vào một bản được, mà cần phải góp nhặt tra cứu những bản liên hệ như: Thánh Đăng Lục, Thiền Tông Bản Hạnh… để bổ túc. Sau này những tập Văn Học Đời Lý, Văn Học Đời Trần của ông Ngô Tất Tố, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận của Nguyễn Lang và Thơ Văn Lý Trần của nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội giúp tư liệu khá nhiều cho chúng tôi, cọng thêm các bộ Quốc sử càng làm sáng tỏ hơn. Tuy nhiên chúng tôi vẫn chưa hài lòng về vị Tổ thứ ba (Huyền Quang), vì quyển Tổ Gia Thực Lục do người trong thân tộc ghi chép đời Ngài, không phải một đệ tử xuất gia thân tín ghi, cho nên những việc tạp thì ghi đủ, còn việc truyền pháp, đắc pháp, vấn đáp, giảng đạo thì ghi quá đơn lược. Vì vậy phần sử của Ngài có nhiều điểm vẫn còn nghi vấn chưa được sáng tỏ.

Quy ển Tam Tổ Trúc Lâm ra đời chắc chắn còn nhiều thiếu sót, vì khả năng chúng tôi có hạn không thể hơn nữa được. Chúng tôi chân thành tri ân tất cả những vị đã có công sưu tập phiên dịch in ấn những tập sách liên hệ đến Phật giáo đời Trần, nhờ công khó nhọc của quí vị giúp chúng tôi được dễ dàng nhiều khi biên soạn quyển sách này.

Kính ghi

THÍCH THANH T Ừ Thiền viện Thường Chiếu Mùa Đông năm 1996

TAM TỔ TRÚC LÂM Lời dẫn

Tr ước khi giảng về Tam Tổ Trúc Lâm, chúng tôi nói sơ lược vài điều. Những bài giảng về Tam Tổ khác hơn những bài giảng về ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ. Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục là nguyên một tập chữ Hán chuyển thành chữ Việt, nên chúng tôi để luôn bản chữ Hán cho quí vị nghiên cứu. Còn các bài về Tam Tổ Trúc Lâm thì khác hơn vì có tánh cách lịch sử nhiều, và những tài liệu thi văn của các ngài tản mác ở những bộ sách khác nhau, cho nên chúng tôi cần phải đối chiếu nhiều quyển mới soạn được chương trình Tam Tổ.

Có r ất nhiều L ại nữa ngài Trần Nhân Tông, tức Sơ tổ Trúc Lâm (Điều Ngự Giác Hoàng), là một ông vua đi tu, cho nên đời của Ngài có nhiều liên hệ đến cuộc sống ở triều chánh. Song trong Tam Tổ Thực Lục hay Tam Tổ Hành Trạng không có kể lại những sự việc liên quan đến cuộc sống đó. Học về Ngài, không phải chúng ta chỉ học khoảng thời gian Ngài đi tu thôi, mà chúng ta cần phải biết rõ từ đầu đến cuối, tức là từ lúc Ngài sanh ra, đến khi làm vua, rồi đi tu và nhập Niết-bàn. Vì thế chúng tôi phải đối chiếu những quyển sử Việt Nam để thâu thập thêm tài liệu đầy đủ nói về cuộc sống của Ngài khi còn ở tại gia. Theo Tam Tổ Thực Lục hay Tam Tổ Hành Trạng, chỉ thấy nói về phần xuất gia, còn phần tại gia rất là đơn sơ.

Đế n như Tổ Huyền Quang, Ngài là một thi sĩ, một Trạng nguyên giỏi văn chương đi xuất gia, cho nên đời của Ngài về mặt thi văn rất là phong phú. Nhưng trong Tam Tổ Hành Trạng hay Tam Tổ Thực Lục chỉ nói đơn giản không có dẫn chứng những thi văn của Ngài. Chúng tôi phải soạn qua các quyển thi văn cổ Việt Nam để tìm gom lại những bài văn Ngài đã làm, do đó chúng ta không có một tập sách nhất định làm căn bản để học. Tuy nhiên những bài thi văn nào quan trọng chúng tôi đều có dẫn kèm bản chữ Hán theo từng bài, chớ không phải là toàn quyển.

SƠ TỔ PHÁI TRÚC LÂM TRẦN NHÂN TÔNG
(1258 – 1308)

Ngài tên húy là Khâm, con tr ưởng vua Trần Thánh Tông và Nguyên Thánh hoàng thái hậu, sanh ngày 11 tháng 11 năm Mậu Ngọ (1258). Ngài tuy ở vị sang cả mà tâm hâm mộ Thiền tông từ thuở nhỏ. Năm mười sáu tuổi được lập làm Hoàng thái tử. Ngài cố từ để nhường lại cho em, mà Vua cha không chịu. Vua cưới trưởng nữ của Nguyên Từ quốc mẫu cho Ngài, tức là Khâm Từ thái hậu sau này. Sống trong cảnh vui hòa hạnh phúc ấy mà tâm Ngài vẫn thích đi tu.

M ột hôm vào lúc giữa đêm, Ngài trèo thành trốn đi, định vào núi Yên Tử. Đến chùa Tháp ở núi Đông Cứu thì trời vừa sáng, trong người mệt nhọc quá, Ngài bèn vào nằm nghỉ trong tháp. Vị Sư trụ trì ở đây thấy Ngài tướng mạo khác thường, liền làm cơm thết đãi. Vua cha hay tin, sai các quan đi tìm thấy, Ngài bất đắc dĩ phải trở về.

N ăm hai mươi mốt tuổi, Ngài lên ngôi Hoàng đế (1279). Tuy ở địa vị cửu trùng, mà Ngài vẫn giữ mình thanh tịnh để tu tập. Thường ngày, Ngài đến chùa Tư Phước trong đại nội tu tập. Một hôm nghỉ trưa, Ngài thấy trong rốn mọc lên một hoa sen vàng lớn bằng bánh xe, trên hoa sen có đức Phật vàng. Có người đứng bên cạnh chỉ Ngài nói: “Biết ông Phật này chăng? Là đức Phật Biến Chiếu.” Tỉnh giấc, Ngài đem việc đó tâu lên Vua cha. Vua Thánh Tông khen là việc kỳ đặc.

Ngài th ường ăn chay lạt thân thể gầy ốm. Thánh Tông thấy thế lấy làm lạ, nên hỏi nguyên do. Ngài trình thật với cha. Thánh Tông khóc bảo: “Nay ta đã già, chỉ trông cậy một mình con, con lại làm như thế, làm sao gánh vác được sự nghiệp của tổ tiên?” Ngài nghe dạy cũng rơi nước mắt.

Con ng ười Ngài rất thông minh hiếu học, đọc hết các sách vở, suốt thông nội điển (kinh) và ngoại điển (sách đời). Những khi nhàn rỗi, Ngài mời các Thiền khách bàn giải về Tâm tông (thiền), tham học thiền với Thượng sĩ Tuệ Trung, thâm đắc đến chỗ thiền tủy. Đối với Thượng Sĩ, Ngài kính lễ làm thầy.

Nh ững khi giặc Nguyên sang quấy rối, Ngài phải xếp việc kinh kệ để lo giữ gìn xã tắc. Nhờ tình đoàn kết quân dân, Ngài đã hai lần (1285, 1288) đuổi được quân Nguyên, giữ gìn trọn vẹn đất nước. Dưới triều đại Ngài, hai cuộc hội nghị nổi tiếng được ghi vào sử sách là: hội nghị các tướng lãnh ở Bình Than, hội nghị những bô lão trong cả nước ở Diên Hồng để bàn mưu kế, tỏ quyết tâm chống giặc.

N ăm Quí Tỵ (1293), Ngài nhường ngôi lại cho con là Trần Anh Tông, lên làm Thái thượng hoàng. Ở ngôi Thái thượng hoàng để chỉ dạy cho con được sáu năm, Ngài sắp đặt việc xuất gia.

Đế n tháng 10 năm Kỷ Hợi (1299) Ngài xuất gia vào tu ở núi Yên Tử. Ở đây, Ngài chuyên cần tu tập theo hạnh đầuđà (khổ hạnh) lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầuđà. Sau đó Ngài lập chùa, cất tinh xá, khai giảng để tiếp độ chúng Tăng. Học chúng đua nhau đến rất đông. Sau, Ngài đến chùa Phổ Minh ở phủ Thiên Trường lập giảng đường, giảng dạy mấy năm. Ngài lại vân du đến trại Bố Chánh lập am Tri Kiến rồi ở đó.

Đế n năm Giáp Thìn (1304), Ngài dạo đi khắp nơi khuyên dân dẹp bỏ những dâm từ (miếu thờ thần không chánh đáng), và dạy họ tu hành Thập thiện. Vào mùa đông năm ấy, vua Anh Tông dâng biểu thỉnh Ngài về đại nội để truyền giới Bồ-tát tại gia.
Sau đó, Ngài chống gậy đến chùa Sùng Nghiêm ở núi Linh Sơn để truyền bá Thiền tông.

Ngày mùng 1 tháng giêng n ăm Mậu Thân (1308), Ngài sai Pháp Loa đến huyện Siêu Loại tại Báo Ân thiền tự khai giảng trụ trì. Tháng tư năm ấy, Ngài đến chùa Vĩnh Nghiêm ở Lượng Giang kiết hạ và sai Pháp Loa khai giảng trụ trì. Chính Ngài giảng Truyền Đăng Lục, bảo Quốc sư Đạo Nhất vì chúng giảng kinh Pháp Hoa. Bãi hạ, Ngài vào núi Yên Tử, đuổi hết những người cư sĩ theo hầu hạ và những kẻ nô dịch trong chùa, không được chực hầu như trước. Chỉ để lại mười vị Thị giả thường theo Ngài. Ngài lên ở am Tử Tiêu, vì Pháp Loa giảng Truyền Đăng Lục. Thị giả xuống núi gần hết, duy có đệ tử thượng túc là Pháp Loa còn ở thôi.

T ừ đây, Ngài leo khắp các núi, tìm kiếm các hang động, ở tại thạch thất. Pháp Loa thấy thế bạch: “Tôn đức tuổi đã già yếu, mà xông pha trong sương tuyết, lỡ có bề gì thì mạng mạch Phật pháp trông cậy vào ai?” Ngài bảo: “Ta thời tiết đã đến, muốn tạo cái kế lâu dài vậy.”

Ngày mùng 5 tháng 10 n ăm ấy, người nhà của Công chúa Thiên Thụy lên núi bạch Ngài: “Công chúa Thiên Thụy bệnh nặng mong được thấy Tôn đức rồi chết.” Ngài bùi ngùi bảo: “Thời tiết đã đến vậy.” Ngài bèn chống gậy xuống núi, chỉ cho theo một người Thị giả. Ngài mùng 10 Ngài về đến kinh, dặn dò xong, ngày rằm Ngài trở về núi. Ngài dừng nghỉ ở chùa Siêu Loại. Hôm sau vừa rạng đông, Ngài đi bộ đến chùa làng Cổ Châu, tự đề bài kệ rằng:
ÂM:

Th ế số nhất tức mặc Thời tình lưỡng hải ngân Ma cung hồn quản thậm Phật quốc bất thắng xuân.
DỊCH:

S ố đời một hơi thở
Lòng người hai biển vàng
Cung ma dồn quá lắm
Cõi Phật vui nào hơn.

Đế n ngày 17, Ngài dừng nghỉ ở chùa Sùng Nghiêm tại Linh Sơn, Tuyên Từ hoàng thái hậu thỉnh Ngài vào am Bình Dương cúng trai. Ngài vui vẻ nói: “Đây là bữa cúng dường rốt sau.” Ngày 18, Ngài lại đi bộ đến chùa Tú Lâm ở ngọn An Kỳ Sanh. Nghe nhức đầu, Ngài gọi hai vị Tỳ-kheo trong chùa bảo: “Ta muốn lên ngọn Ngọa Vân mà chân không thể leo nổi, phải làm sao?” Hai vị Tỳ-kheo bạch: “Hai đệ tử có thể giúp được.” Đến am Ngọa Vân, Ngài tạ hai vị Tỳ-kheo rằng: “Xuống núi tu hành đi, chớ xem thường việc sanh tử.”

Ngày 19, Ngài sai Th ị giả Pháp Không lên am Tử Tiêu ở núi Yên Tử gọi Bảo Sát đến đây gấp. Ngày hai mươi, Bảo Sát quảy gói sang, đi đến Doanh Tuyền thấy một vầng mây đen từ ngọn Ngọa Vân bay qua Lỗi Sơn và hạ xuống Doanh Tuyền, nước đầy tràn lên cao mấy trượng, giây lát lại bình xuống. Lại thấy hai con rồng đầu bằng đầu ngựa ngóc cao hơn trượng, hai con mắt như sao, chốc lát lại lặn xuống. Đêm ấy Bảo Sát nghỉ trong quán trọ dưới núi, mộng thấy điềm chẳng lành.

Ngày 21, B ảo Sát đến am Ngọa Vân. Ngài trông thấy mỉm cười bảo: “Ta sắp đi đây, nhà ngươi đến sao trễ vậy? Đối với Phật pháp, ngươi có chỗ nào chưa rõ hãy nói mau.”
Bảo Sát hỏi:

 
– Như khi Mã Tổ bệnh, Viện chủ hỏi: “Những ngày gần đây Tôn đức thế nào?” Mã Tổ bảo: “Mặt trời Phật, mặt trăng Phật.” Nói thế ý chỉ làm sao?

Ngài l ớn tiếng đáp:
– Ngũ Đế Tam Hoàng là vật gì?
Bảo Sát lại hỏi:
– Chỉ như “hoa sum sê chừ gấm sum sê, tre đất nam chừ cây đất bắc”, lại là sao?

Ngài đáp:
– Làm mù mắt ngươi.
Bảo Sát bèn thôi.
Suốt mấy hôm trời đất u ám, chim vượn kêu hót rất bi thảm.

Đế n ngày mùng 1 tháng 11, đêm nay trời trong sao sáng, Ngài hỏi Bảo Sát: “Hiện giờ là giờ gì?” Bảo Sát bạch: “Giờ Tý.” Ngài lấy tay vén màn cửa sổ nhìn xem, nói: “Đến giờ ta đi.” Bảo Sát hỏi: “Tôn đức đi đến chỗ nào?” Ngài nói kệ đáp:
ÂM:

Nh ất thiết pháp bất sanh Nhất thiết pháp bất diệt Nhược năng như thị giải Chư Phật thường hiện tiền.
Hà khứ lai chi liễu dã.

 
DỊCH:

T ất cả pháp chẳng sanh Tất cả pháp chẳng diệt Nếu hay hiểu như thế
Chư Phật thường hiện tiền.

Nào có đến đi ấy vậy.
Bảo Sát hỏi:
– Chỉ như khi chẳng sanh chẳng diệt là thế nào?
Ngài liền nhằm miệng Bảo Sát tát cho một cái, nói:
– Chớ nói mớ.
Nói xong, Ngài bèn nằm như sư tử lặng lẽ mà tịch, vào niên hiệu Hưng Long thứ 16 (1308), thọ năm mươi mốt tuổi.

Pháp Loa theo l ời di chúc của Ngài làm lễ hỏa táng, lượm ngọc cốt có năm màu để vào bình. Vua Anh Tông cùng đình thần đem long giá rước ngọc cốt về tôn thờ nơi Đức Lăng và xây tháp ở chùa Vân Yên trên núi Yên Tử, để hiệu là Huệ Quang Kim Tháp và dâng tôn hiệu là Đại Thánh Trần Triều Trúc Lâm Đầuđà Tĩnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật.

Ngài còn l ưu lại những tác phẩm:
1. Thiền Lâm Thiết Chủy Ngữ Lục
2. Đại Hương Hải Ấn Thi Tập
3. Tăng-già Toái Sự
4. Thạch Thất Mị Ngữ do Pháp Loa soạn lại lời của Ngài.
Mời các bạn đón đọc Tam Tổ Trúc Lâm của tác giả Thích Thanh Từ.

Đánh giá bài viết
Xin lỗi vì sự bất tiện này! Nhưng mình làm affiliate để tự trang trải chi phí duy trì server, mong các bạn thông cảm.
Quảng cáo sẽ tự ẩn đi trong vòng 30 giây

Nguồn: dtv-ebook.com