Isaac Bashevis Singer là nhà văn Mỹ gốc Do Thái Ba Lan đoạt giải Nobel Văn học năm 1978.
Isaac Basevic Singer, sinh ở Radzymin, Đế chế Nga (nay là Ba Lan) trong gia đình có bốn người con. Bố là người sùng tín Do Thái giáo thần bí, mẹ ở nhà làm nội trợ. Từ bé I. Singer thường được bố kể cho nghe những câu chuyện về thiên thần, quỷ sứ và nghe mẹ kể những câu chuyện về cổ tích gia đình. Năm lên 4 tuổi, gia đình chuyển về Warszawa Singer vào học ở trường dòng, ông bắt đầu say mê đọc các sách chính trị, kinh tế và văn học cổ điển Nga thế kỉ XIX. Năm 13 tuổi, I. Singer theo mẹ về quê ngoại ở miền Đông Ba Lan, nơi phong cảnh thiên nhiên cũng như cuộc sống con người vẫn còn giữ được khá đầy đủ những nét cổ xưa của thời Trung cổ. Năm 1923 I. Singer quay về Warszawa làm người chữa bản in cho tạp chí Trang văn học (Literarische Bletter). Thời gian này ông nghiên cứu triết học, ngôn ngữ, tâm lý học, các môn khoa học tự nhiên và bắt đầu thử viết văn. Năm 1927 tạp chí Literarische Bletter đăng 2 truyện ngắn đầu tay Tuổi già và Người đàn bà của ông, những năm sau đó ông tiếp tục viết truyện ngắn, dịch các tiểu thuyết hình sự Đức và tác phẩm của K. Hamsun, T. Mann.
Trong diễn từ nhận giải Nobel, I. Singer coi việc tặng giải cho ông là “sự thừa nhận đối với ngôn ngữ Yiddish – một ngôn ngữ chịu cảnh tha hương, ngôn ngữ không có đất, không có biên cương… một ngôn ngữ mà không có từ để diễn tả những khái niệm như “vũ khí”, “quân trang”, “huấn luyện cực hình”, “chiến thuật nhà binh”… Tiếng Yiddish là một ngôn ngữ khiêm nhường và luôn lo sợ nhưng không đánh mất niềm hy vọng của con người”. Các nhà phê bình có những đánh giá khác nhau về I. Singer, nhưng ông được coi là một người kể chuyện tài hoa, hấp dẫn. Ông mất ở Surfride, Florida, Mỹ năm 1991.
Tác phẩm:
Tuổi già (Oyf der elter, 1927), truyện ngắn
Người đàn bà (Vayber, 1927), truyện ngắn
Quỷ sa tăng ở Goray (Der soten in Goray, 1943), tiểu thuyết
Chúa cứu thế lầm lỗi (Messiah the sinner, 1937) tiểu thuyết
Gia đình Mushkat (Di familye Mushkat, 1950), tiểu thuyết
Trang viên (The manor, 1967), tiểu thuyết
Điền trang (The estate, 1969), tiểu thuyết
Gimpel dại dột (Gimpel the fool, 1953), truyện
Thầy phù thủy ở Lublin (Der kunsmakher fun Lublin, 1961), tiểu thuyết
Spinoza nơi phố chợ (Der Spinozisti dertsey lung, 1961), tập truyện ngắn
Kẻ nô lệ (Knekht, 1962) tiểu thuyết tình yêu
Anh bạn của Kafka và những câu chuyện khác (A friend of Kafka and other stories, 1970), tập truyện ngắn
Shosha, (1978) tiểu thuyết
Ngày hạnh phúc: những câu chuyện về cậu bé lớn lên ở Warszawa (Day of pleasure: stories of a boy growing up in Warszawa, 1969), hồi kí
Cậu bé đi tìm Chúa: thuyết huyền nhiệm trong ánh sáng riêng (A little boy in search of God: mysticism in a personal light, 1976), hồi kí
Chàng trai trẻ đi tìm tình yêu (A young man in search of love, 1978), hồi kí
Lạc lối ở nước Mỹ (Lost in America, 1981) hồi kí
Truyện dành cho thiếu nhi (Stories for children, 1986)
Vì sao Nô-ê chọn bồ câu (Why Noah chose the dove, 1974), truyện thiếu nhi
Tình già (Old love, 1979), tập truyện ngắn
Nguồn: dtv-ebook.com